Báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết số 24/2016/QH14 về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 của Chính phủ tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV, phần nội dung cơ cấu lại các TCTD cho thấy về cơ bản đã hoàn thành các mục tiêu đặt ra. Theo đó trên cơ sở Nghị quyết 24 và Nghị quyết số 42, ngành Ngân hàng đã triển khai một cách quyết liệt, đồng bộ và hiệu quả việc cơ cấu lại các TCTD gắn liền với XLNX nhằm lành mạnh hóa tình hình tài chính, quản trị của các TCTD.
Bên cạnh đó, năng lực quản trị điều hành của các TCTD cũng từng bước được nâng cao. Hệ thống kiểm soát nội bộ của TCTD được xây dựng theo mô hình 3 tuyến bảo vệ phù hợp với thông lệ quốc tế mới nhất về quản trị ngân hàng và quản trị rủi ro phù hợp theo hướng dẫn của Ủy ban Basel.
Tình trạng đầu tư chéo, sở hữu chéo được xử lý và xóa bỏ; tình trạng cổ đông/nhóm cổ đông lớn thao túng, chi phối ngân hàng về cơ bản được kiểm soát. Công tác thanh tra, giám sát, kiểm tra, kiểm soát và xử lý các hành vi vi phạm được tăng cường, đồng thời đẩy mạnh ứng dụng CNTT nhằm nâng cao khả năng cảnh báo sớm đối với những rủi ro tiềm ẩn mang tính hệ thống và ngăn ngừa nguy cơ vi phạm pháp luật của các TCTD. Năng lực, nguồn lực của VAMC để mua, bán nợ theo giá thị trường gắn với xử lý tài sản thế chấp, bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của chủ nợ cũng được nâng cao.
Năm 2020, kiểm toán nhà nước thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính, các hoạt động liên quan đến quản lý, sử dụng vốn, tài sản Nhà nước năm 2018 của Ngân hàng nhà nước và một số ngân hàng có quy mô lớn để đánh giá thực trạng tài chính của đơn vị và hiệu quả công tác quản lý, điều hành chính sách tiền tệ.
Thông qua hoạt động kiểm toán, KTNN cũng thực hiện đánh giá hoạt động tái cơ cấu thị trường tài chính, trọng tâm là ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng; xác định thực trạng sở hữu chéo, nợ xấu, đặc biệt là việc triển khai các biện pháp xử lý nợ xấu và kiểm soát, nâng cao chất lượng tín dụng theo Đề án “Xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng” được phê duyệt tại Quyết định số 843/QĐ- TTg ngày 31/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ; Đề án “Cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 - 2020” và việc thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng theo Nghị quyết 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội.
Theo đó, KTNN sẽ thực hiện kiểm toán tại: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam; Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam; Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam.
Theo Thông tư 46/2018 của NHNN, kể từ năm 2021, cổ đông lớn của tổ chức tín dụng (TCTD) và người có liên quan không được sở hữu cổ phần vượt quá 5% vốn điều lệ (VĐL) của TCTD khác.
Việc NHNN yêu cầu rà soát lại các cổ đông lớn sở hữu cổ phần vượt giới hạn nhắm vào các vấn đề truy soát lợi ích nhóm tại các NH là hợp lý. Qua đó, NHNN có thể thấy rõ cơ cấu cổ đông của mỗi NH, xem cổ đông nào là người có thực quyền trong NH và có những người liên quan nào, từ đó có biện pháp chấn chỉnh phù hợp.
Bởi vấn đề lợi ích nhóm trong thời gian qua đã gây tổn hại cho ngành NH, đưa nhiều NH vào khủng hoảng do những cổ đông chính núp bóng dưới những người có liên quan. Với quy định này, cơ quan quản lý cần quyết liệt yêu cầu các TCTD thực hiện.
Theo một chuyên gia tài chính, việc cá nhân có thể sở hữu đến 10% cổ phần của TCTD, còn tổ chức chỉ được sở hữu tối đa 5%, được lý giải cá nhân ít có ảnh hưởng đến các TCTD so với các tổ chức, nên trần tỷ lệ sở hữu của cá nhân cao hơn tổ chức. Phần nữa, các tổ chức có khả năng thao túng nhiều hơn cá nhân, nên trần tỷ lệ sở hữu thấp cũng nhằm ngăn ngừa việc lạm dụng vị trí của các tổ chức.
Đồng thời, cá nhân dù được bầu vào ban quản trị của NHTM chỉ với tư cách là thành viên ban quản trị, không phải với tư cách là đại diện của pháp nhân. Tức cá nhân đó phải hành động vì lợi ích của tất cả cổ đông, không phải chỉ vì lợi ích riêng của pháp nhân được cá nhân đó đại diện. Còn việc NH mua cổ phiếu của NH khác vượt giới hạn quy định do nguyên nhân lịch sử để lại của ngành NH, cũng như do tính tuân thủ quy định của hệ thống NH Việt Nam chưa cao, chế tài xử lý chưa đủ mạnh.
Hay Luật Các TCTD sửa đổi, bổ sung có hiệu lực từ 15-1-2018 có nhiều điều khoản, quy định nhằm hạn chế SHC, nhưng mới giải quyết được vấn đề hình thức. Chẳng hạn, quy định chủ tịch HĐQT của 1 TCTD không đồng thời là chủ tịch HĐQT của DN khác. Nhưng thực tế quy định này không hiệu quả. Mục đích nhằm tránh lạm quyền của chủ tịch HĐQT, nhưng họ sẽ núp bóng dưới hình thức khác.
Vì thế, kiểm soát NH phải bằng luật, chẳng hạn các chủ tịch HĐQT được phân bổ quyền lực như thế nào, thực thi quyền lực đến mức nào. Đồng thời phải áp dụng quản trị NH theo Basel II, HĐQT không điều hành NH, chỉ đóng vai trò quản trị, định hướng, chiến lược, giám sát, còn ban điều hành thực hiện các hoạt động của NH theo Thông tư 13. Hiện nay vẫn chưa có sự phân định rạch ròi giữa quản trị và quản lý tại các NH.
Việc các tập đoàn tư nhân đầu tư vào ngân hàng được đánh giá là tích cực ở hai khía cạnh, trong bối cảnh NHNN hiện quản lý rất chặt chẽ. Thứ nhất, quá trình thay máu cổ đông mang tới những nhà đầu tư lành mạnh (phải được NHNN chấp thuận), có động lực tái cơ cấu, phát triển ngân hàng; và thứ hai, khi kết hợp giữa hệ sinh thái, tập khách hàng sẽ tạo ra giá trị vượt trội cho cả hai bên, qua đó cũng đóng góp chung vào sự phát triển kinh tế xã hội.
Có thể dễ dàng nhận thấy, hiện nay ngoại trừ các ngân hàng quốc doanh, thì gần như tất cả các nhà băng tư nhân trong nước hiện nay đều ghi đậm dấu ấn của một tập đoàn/ ông chủ tư nhân, như ABBank - Geleximco; Sacombank, LienVietPostBank - Him Lam; SHB - T&T Group; OCB - Hướng Việt; VPBank - MIK; Techcombank - Masterise; MSB - TNG Holding; HDBank - Sovico; SCB - Vạn Thịnh Phát; Nam Á Bank - Hoàn Cầu; VietBank - Hoa Lâm; Bắc Á Bank - TH Group; VietABank - Việt Phương...
Dù có quy định nhóm cổ đông lớn không được sở hữu quá 20% cổ phần ngân hàng, song từ trước đến nay, các ông chủ nhà băng sẽ không bất ngờ nếu nắm giữ thực tế vượt xa con số này, có thể thấy rõ qua các đại án Trustbank - Hứa Thị Phấn, VNCB - Phạm Công Danh hay Oceanbank - Hà Văn Thắm.
Thực trạng sở hữu chéo, tuồn vốn cho sân sau từng là "cục máu đông" nhức nhối hệ thống ngân hàng Việt Nam cách đây 1 thập kỷ. Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước những năm trở lại đã siết chặt quản lý điều hành ngân hàng, giúp hệ thống hoạt động minh bạch và "sạch" hơn đáng kể.
Kể từ năm 2008, Việt Nam không cho mở mới ngân hàng, những tờ giấy phép hoạt động, bởi vậy, ngày càng có giá khi các đại gia Việt chưa bao giờ giảm đi khao khát sở hữu một nhà băng nhằm hoàn thiện hệ sinh thái của họ, hoặc cũng có thể là với mục đích đầu tư.
Trước NCB, không ít trường hợp tương tự khi các tập đoàn lớn đã tìm được đường vào các nhà băng, có thể thấy qua thương vụ Thành Công Group trở thành cổ đông lớn ở Eximbank.
Tại Eximbank, nhà lắp ráp xe Huyndai không phải là tay chơi duy nhất muốn sở hữu nhà băng cỡ vừa này, ngoài ra còn phải kể đến tập đoàn địa ốc lớn ở phía Nam đã từng tiến rất gần đến thương vụ NCB (đã đề cập) cũng bày tỏ sự quan tâm tới Eximbank, cùng với đó là cả Sacombank. Tương tự, đại gia Ninh Bình Nguyễn Đức Thuỵ ("bầu" Thuỵ) thời gian qua cũng thu hút nhiều chú ý khi cùng Thai Holdings đầu tư vào LienVietPostBank.
Ở Saigonbank, ngoài 65% mà Thành uỷ TP.HCM không sớm thì muộn cũng phải thoái vốn, số còn lại được đồn đoán thuộc sở hữu của một nữ đại gia địa ốc hàng đầu Sài Thành. Ở phía Bắc, chủ một ngân hàng khác được cho là cũng đang sở hữu tỷ lệ đáng kể PGBank, trong bối cảnh nhà băng này đã huỷ thương vụ sáp nhập với HDBank.
Rồi mới đây sự xuất hiện của các thủ lĩnh tập đoàn bất động nhảy sang làm kiêm nhiệm giữ vai trò chủ chốt ở các nhà băng càng cho thấy những mối lợi đằng sau câu chuyện này.
Như ông chủ của Sunshine Group sang làm Phó Chủ tịch KienlongBank, nữ tướng của tập đoàn này cũng nhảy vào vị trí Chủ tịch của nhà băng này. Tương tự như Lienvietpostbank và NCB cùng với bóng dáng của Thaiholdings và Sungroup. Trước đó, những mối quan hệ thân quen giữa các lãnh đạo cũng cho thấy được sự thân thiết ở các dự án mà 2 bên này tham gia chung tay như kẻ tung người hứng; hay như mối quan hệ người nhà chằng chịt của của các ông chủ lớn Techcombank - Masterise... (Chi tiết sẽ đăng ở các kỳ sau).
Rõ ràng mối lo ngại bóng dáng nhiều tập đoàn BĐS ẩn hiện sau những chiếc ghế nóng ngân hàng vừa đổi chủ cho thấy, mối quan hệ sở hữu giữa các tập đoàn BĐS với ngân hàng vẫn hết sức nhạy cảm, phức tạp.
Một thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính tiền tệ quốc gia cho rằng, sở hữu chéo vẫn là vấn đề cần quan tâm bởi quy định hiện hành chưa giám sát hết các mối quan hệ sở hữu chéo giữa ngân hàng với doanh nghiệp sân sau của cổ đông lớn.
Điều dễ nhận thấy, các ngân hàng TMCP tư nhân hiện đều có cổ đông lớn là ông chủ, bà chủ của các tập đoàn bất động sản. Mối lợi của các cổ đông này khi nắm giữ cổ phiếu ngân hàng không phải từ việc tăng giá cổ phiếu, hay khoản cổ tức không mấy hấp dẫn của nhà băng. Rất có thể, lợi ích của các ông chủ, bà chủ tập đoàn bất động sản khi trở thành cổ đông lớn của nhà băng là có thể “bẻ lái” tín dụng đến dự án bất động sản sân sau.
Trên thực tế, báo cáo tài chính của nhiều ngân hàng cũng cho thấy, quan hệ tín dụng và đầu tư trái phiếu doanh nghiệp giữa ngân hàng với doanh nghiệp bất động sản sân sau đều có những liên hệ nhất định.
Để giám sát dòng vốn từ ngân hàng chảy vào các quan hệ sở hữu chéo, Luật Các tổ chức tín dụng hiện hành đã quy định về giới hạn tín dụng. Theo đó, tổng dư nợ tín dụng với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng. Tổng dư nợ của một khách hàng và người liên quan không được vượt quá 25% vốn tự có (dư nợ này đã bao gồm cả trái phiếu do doanh nghiệp phát hành).
Song có thể thấy, quy định trên chưa thể giám sát được hết các quan hệ sở hữu vô cùng phức tạp hiện nay. Lý do là nhiều tập đoàn bất động sản hiện sở hữu hàng trăm công ty con, công ty cháu. Thông qua mạng lưới công ty con, cháu chằng chịt này, một doanh nghiệp rất dễ - vô tình hoặc cố ý vượt hạn mức 15%. Bên cạnh đó, đang xuất hiện các nhóm liên kết mà chủ sở hữu không vi phạm quy định về “người liên quan”, tức ngân hàng có thể cho các nhóm liên kết này vay vượt 25% vốn tự có của mình mà không phạm luật.
Đây cũng là lý do giải thích vì sao, cho dù sở hữu chéo, về mặt danh nghĩa đã giảm đi rất nhiều, song giới chuyên gia vẫn lo ngại về khả năng kiểm soát tín dụng của cổ đông lớn và người liên quan.
Báo cáo "Rủi ro bất ổn tài chính toàn cầu - sức chống chịu của Việt Nam và kiến nghị" của TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV đánh giá, thị trường tài chính Việt Nam ở mức độ rủi ro và sức chịu đựng trung bình - khá.
Trong đó, sức chống chịu của hệ thống NH dù đã tốt hơn nhiều so với trước đây nhưng áp lực nợ xấu tăng và lợi nhuận giảm do Covid-19 đang là những thách thức khá lớn. Theo Nhóm nghiên cứu, nếu hạch toán đầy đủ các khoản giảm thu từ lãi và các khoản hỗ trợ do cơ cấu lại nợ, trích lập dự phòng rủi ro khi Thông tư 01 hết hiệu lực, tỷ lệ nợ xấu nội bảng có thể đến 3% cuối năm 2020; 3,5-4% năm 2021 và nợ xấu gộp có thể lên đến khoảng 5-5,5%.
"Rủi ro của lĩnh vực NH Việt Nam được đánh giá ở mức trung bình - khá (có nguy cơ lên cấp độ 4, dựa trên phương pháp xây dựng ma trận đánh giá rủi ro của IMF). Mức độ rủi ro có thể tăng và sức chịu đựng có thể suy giảm nếu được kích hoạt bởi sự tăng nhanh của nợ xấu trong khi hệ số CAR còn thấp so với khu vực và các nước mới nổi", Nhóm nghiên cứu nêu.
Lộ trình cơ cấu lại các TCTD cần tiếp tục thực hiện và TS. Cấn Văn Lực khuyến nghị, một mặt cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, chú trọng xây dựng hệ thống thông tin, dữ liệu tài chính - tiền tệ quốc gia theo hướng công khai, minh bạch, cập nhật và kết nối hơn; xây dựng mô hình quản lý - giám sát rủi ro hệ thống, cơ chế xử lý khủng hoảng tài chính; nâng cao năng lực quản lý, giám sát, an toàn và ổn định hệ thống tài chính - tiền tệ.
Cùng với đó, cần tiếp tục nâng cao năng lực của khu vực NH, hướng tới chuẩn mực quốc tế và phát triển bền vững. Trong đó, tập trung tái cấu trúc một cách toàn diện, nâng cao năng lực quản trị - tài chính (nhất là hệ số CAR) và quản trị rủi ro theo Basel II, đẩy nhanh tháo gỡ vướng mắc XLNX theo Nghị quyết 42 (cần thiết luật hóa XLNX), thúc đẩy thành lập thị trường mua bán nợ; nâng cao hiệu quả kinh doanh và khả năng chống chịu rủi ro của các TCTD.
Đồng thời, quyết liệt thực hiện thành công Quyết định 986/QĐ-TTg ngày 8/8/2018 về chiến lược ngành Ngân hàng đến năm 2025, tầm nhìn 2030. Về phía các TCTD, cần chú trọng tiếp tục tái cơ cấu, nâng cao năng lực tài chính, tăng vốn chủ sở hữu, năng lực quản trị rủi ro, đẩy nhanh tiến trình số hóa gắn với chiến lược kinh doanh mới phù hợp, an toàn và hiệu quả.
Kỳ tới: Bóng dáng các tập đoàn bất động sản hiện hữu ở ngân hàng: "Kẻ tung người hứng"