Làn sóng công nghiệp 4.0 với xu hướng số hóa và chuyển đổi số mang đến cơ hội nâng cao năng suất trên phạm vi toàn thế giới, trong đó có Việt Nam.
Để nắm lấy cơ hội này, không chỉ các doanh nghiệp lớn, mà doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng cần tận dụng chuyển đổi số như một cơ hội để tồn tại và nâng cao năng lực cạnh tranh. Các doanh nghiệp triển khai tốt chuyển đổi số sẽ có chiến lược đổi mới sáng tạo, áp dụng mô hình, hệ thống quản lý và công cụ tiên tiến, có chất lượng sản phẩm hàng hóa vượt trội góp phần nâng cao giá trị, sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế.
Các khách mời tham gia chương trình tọa đàm do Chất lượng Việt Nam tổ chức |
Ngày 21/5/2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 712/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình quốc gia “Nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam đến năm 2020”. Trải qua 10 năm triển khai thực hiện, Chương trình đã tạo ra bước chuyển mạnh mẽ trong hoạt động thúc đẩy năng suất chất lượng tại Việt Nam.
Bước sang giai đoạn mới, Thủ tướng Chính phủ mới đây tiếp tục phê duyệt Chương trình quốc gia hỗ trợ DN nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa giai đoạn 2021-2030. Tận dụng cơ hội từ chuyển đổi số để nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm hàng hóa và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong bối cảnh CMCN 4.0 là một nội dung quan trọng nhằm thúc đẩy năng suất chất lượng trong giai đoạn tới.
Để đánh giá kết quả, hiệu quả của Chương trình, đồng thời chia sẻ thông tin, tìm kiếm giải pháp và gợi mở những định hướng hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng suất chất lượng trong giai đoạn tiếp theo, Chất lượng Việt Nam online (VietQ.vn) tổ chức chương trình tọa đàm “Thúc đẩy phong trào năng suất, nâng cao chất lượng doanh nghiệp trong bối cảnh chuyển đổi số”.
Chương trình Tọa đàm có sự tham gia của các khách mời:
+ TS. Nguyễn Văn Thân, Đại biểu Quốc hội, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam;
+ TS. Hà Minh Hiệp, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng;
+ PGS.TS Vũ Hoàng Nam, Trường Đại học Ngoại Thương;
+ Ông Ngô Việt Hải, Giám đốc khu vực Việt Nam, Tập đoàn Advantech.
Chương trình tọa đàm "Thúc đẩy phong trào năng suất, nâng cao chất lượng doanh nghiệp trong bối cảnh chuyển đổi số” diễn ra vào 9h30 ngày 2/10/2020 và được trực tuyến trên Chất lượng Việt Nam Online - Vietq.vn.
MC. Việt Hà dẫn chương trình.
MC Việt Hà: Thưa ông Hà Minh Hiệp, sau 10 năm triển khai Chương trình quốc gia về Nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm hàng hóa cho doanh nghiệp Việt Nam, xin ông đánh giá tổng quan về kết quả Chương trình trong việc hỗ trợ cho doanh nghiệp?
TS. Hà Minh Hiệp: Chúng ta cũng đã thực hiện được 10 năm Chương trình Năng suất chất lượng (NSCL), có thể nói tổng thể chung chúng ta đã đưa được năng suất thành phong trào. Chúng ta đã triển khai trên diện rộng và đã đưa phong trào năng suất trên phạm vi cả nước. Chương trình NSCL đã triển khai được trên 63 tỉnh thành và các bộ ngành. Các tỉnh thành cũng đã trực tiếp xây dựng chương trình, thành phần triển khai. Sau 10 năm triển khai thì tôi có thể đánh giá một số điểm như:
Thứ nhất, Hệ thống tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật của Việt Nam ngày càng hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế với trên 12.000 TCVN, gần 800 quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và hàng vạn tiêu chuẩn cơ sở trong nhiều lĩnh vực khác nhau, làm chuẩn mực quan trọng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và quản lý.
Thứ hai, chúng ta cũng đã xây dựng được hơn 700 quy chuẩn đưa một số quy chuẩn, đưa các quy chuẩn vào hệ thống để quản lý theo phương thức tiên tiến.
Năng suất lao động của Việt Nam thời gian qua cũng có những tăng trưởng nhanh, đặc biệt tốc độ tăng năng suất của chúng ta cũng cao của châu Á.
Cuối cùng, theo chúng tôi đánh giá các chương trình năng suất chất lượng nhận thức của doanh nghiệp, nhận thức của người dân vê năng suất chất lượng cũng tăng cao.
MC Việt Hà: Thưa ông Nguyễn Văn Thân, với vai trò là người đứng đầu tổ chức đại diện cho doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, ông có nhận định như thế nào về tác động của Chương trình NSCL đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa trong thời gian vừa qua?
TS. Nguyễn Văn Thân - Đại biểu Quốc hội: Trong khoảng thời gian 10 năm theo dõi bước đi của Chương trình Nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, hàng hóa Quốc gia đến năm 2020, hay còn gọi là chương trình 712. Tôi đánh giá Chương trình này có ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển của kinh tế - xã hội, điển hình như mức năng suất lao động của Việt Nam đã tăng, đời sống của người dân được cải thiện đáng kể. Trong đó có sự chuyển biến từ tư duy đến hành động của doanh nghiệp nhỏ và vừa cả nước là rất lớn.
Sau khi chương trình 712 chính thức đi vào cuộc sống, các chủ doanh nghiệp bắt đầu quan tâm và kiểm soát nhiều hơn về số lượng sản phẩm ra đời trên mỗi giây, thay vì kiểm soát số lượng sản phẩm ra đời vào cuối ngày. Nhờ đó mà họ cũng bắt đầu chi tiết hóa từng công đoạn sản xuất để tìm ra những điểm “thắt nút” gây ảnh hướng tới sản lượng đầu ra của doanh nghiệp. Mặt khác, do yếu tố cạnh tranh của sản phẩm quốc nội cũng như các mặt hàng xuất khẩu ngày càng tăng, nên doanh nghiệp đã biết cách áp dụng các công cụ kỹ thuật để kiểm soát chất lượng sản phẩm từ khâu nguyên vật liệu đầu vào, quá trình sản xuất, đến khi sản phẩm được chuyển đến tay khách hàng.
Chương trình 712 đã giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa nâng cao được trình độ quản trị, hiệu quả hoạt động (bao gồm cả việc kiểm soát chi phí, lãng phí) và quan trọng nhất là tối ưu hóa được lợi nhuận của doanh nghiệp.
MC. Việt Hà: Để tiếp tục hỗ trợ DN trong bối cảnh mới, Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt Chương trình quốc gia hỗ trợ DN nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa giai đoạn 2021-2030. Điểm nhấn nổi bật của Chương trình này là gì thưa ông Hiệp?
TS. Hà Minh Hiệp: Thứ nhất, rất may mắn trong chuỗi chương trình nâng cao NSCL quốc gia đã được Thủ tướng phê duyệt trong đó giai đoạn này trong một chuỗi các chương trình năng suất quốc gia và như Tiến sĩ Thân có vừa nói thì tư duy chúng ta làm việc cần thay đổi tư duy về đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
TS. Nguyễn Văn Thân - Đại biểu Quốc hội và TS. Hà Minh Hiệp (bên trái) đang trao đổi trong chương trình tọa đàm |
Chương trình 1322 là chương trình nâng cao năng suất chất lượng 10 năm tới. trước đây chúng ta đã triển khai ở tất cả các địa phương và bộ ngành để nâng cao nhận thức thành phong trào thì bây giờ chúng ta sẽ triển khai sâu. Chúng ta sẽ đưa vào các mô hình chuyển đổi số, các tiêu chuẩn, các hệ thống công cụ quản lý về đổi mới sáng tạo, chúng ta đưa vào các mô hình hệ thống quản trị thông minh, công nghệ số để giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu quả công nghệ doanh nghiệp. Trước khi doanh nghiệp tính đến vấn đề chúng ta thực hiện thay đổi công nghệ, đổi mới công nghệ.
Như TS. Thân có nói là chúng ta sẽ giúp doanh nghiệp thay đổi hiệu quả sử dụng công nghệ số. Các bạn cũng đã biết, chúng ta có khái niệm công nghiệp 4.0 nhưng tại một số quốc gia đã đưa ra công nghiệp 3.5. Đó là giai đoạn giúp cho doanh nghiệp chưa thay đổi các dây chuyền công nghệ 4.0 mà chúng ta hãy tích hợp con người vào hệ thống máy móc cùng với các nền tảng như công nghệ thông tin. Đây cũng là một trong những định hướng của chương trình NSCL tới đây mà chúng tôi đang hướng tơi.
MC. Việt Hà: Thưa TS. Thân, theo ông nhu cầu cấp thiết của DN cải tiến năng suất trong thời gian tới như thế nào? Đặc biệt trong bối cảnh sản xuất kinh doanh có nhiều thay đổi và biến động thì DN bị ảnh hưởng ra sao, vấn đề năng suất đóng vai trò như thế nào trong nâng cao năng lực cạnh tranh của các DN?
TS. Nguyễn Văn Thân - Đại biểu Quốc hội: Chúng ta đang đối mặt với thách thức rất lớn từ đại dịch Covid-19, nó ảnh hưởng không chỉ tới nền kinh tế trong nước mà còn gây đứt đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu. Đối với doanh nghiệp, sự sụt giảm nghiêm trọng về nhu cầu tiêu thụ cả trong và ngoài nước đã khiến hoạt động sản xuất, kinh doanh bị đình trệ.
Theo thống kê trong 9 tháng đầu năm, có tới 70.000 doanh nghiệp phải tạm ngưng hoạt động hoặc đóng cửa, ảnh hưởng tới khoảng 31 triệu người lao động. Trong bối cảnh như hiện nay, yếu tố cạnh tranh lại càng trở nên khốc liệt, gần như tỷ lệ đối chọi trên thị trường đã tăng lên hàng chục lần so với giai đoạn trước dịch. Do vậy, doanh nghiệp vừa phải tiết giảm chi phí, vừa phải nâng cao hiệu quả hoạt động để đảm bảo duy trì vận hành tối thiểu cho tới khi có cơ hội phục hồi.
Để làm được điều đó thì việc thúc đẩy năng suất, chất lượng là vô cùng quan trọng. Thực tế là các doanh nghiệp Việt Nam cũng rất năng động và chủ động trong việc chuyển đổi mô hình sản xuất, kinh doanh để ứng phó với dịch bệnh; chẳng hạn như nhiều doanh nghiệp đã áp dụng phương thức làm việc từ xa để giảm thiểu chi phí không cần thiết, hoặc có nhiều doanh nghiệp đã ứng dụng mô hình kinh doanh online để phục vụ tốt hơn cho khách hàng…
MC. Việt Hà: Việc chú trọng phát triển nguồn nhân lực, trong đó có việc triển khai hoạt động đào tạo NSCL đến các trường Đại học được xem là định hướng quan trọng giúp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho DN, mục tiêu cụ thể của định hướng này là gì thưa TS. Hà Minh Hiệp?
TS. Hà Minh Hiệp: Tôi cũng nhất trí cao với quan điểm của TS. Thân. Trong giai đoạn 10 năm trước chúng ta đã triển khai thí điểm vào đào tạo năng suất cho hơn 40 trường nghề về các chương trình năng suất cho các em học viên. Qua đó cho thấy hiệu quả rất tốt, trong 10 năm tới chúng ta tập trung bên cạnh trường nghề, bắt đầu tiếp cận đến các trường đại học. Nhất là những trường đại học uy tín như Đại học Ngoại thương và các trường đại học khác. Đưa NSCL vào trong trường học và Chính phủ sẽ hỗ trợ những hoạt động đào tạo như vậy. Bên cạnh đó, chúng ta cũng hướng tới nguồn nhân lực chất lượng cao hơn.
Sắp tới trong chương trình năng suất Chính phủ đã giao cho chúng ta xây dựng tiêu chuẩn Việt Nam về chuyên gia năng suất để hướng tới chuẩn hóa đội ngũ chuyên gia năng suất.
Trong trương trình 1322 của Thủ tướng đã định hướng là chúng ta sẽ cố gắng phát triển khoảng 200 chuyên gia năng suất của Việt Nam đạt được các tiêu chuẩn của tổ chức năng suất châu Á, quốc tế.
Chúng ta đã xây dựng những lực lượng nguồn nhân lực theo từng mức độ mà có sự định hướng đối với họ để làm sao họ hướng tới mục tiêu cao hơn.
Chúng tôi cũng đánh giá rất cao lực lượng các chuyên gia năng suất. Bên cạnh đó, chương trình năng suất trong giai đoạn tới hướng tới việc năng cao nhận thức cho các cơ quan, các doanh nghiệp.
Trước đây chúng ta đào tạo cho người lao động và các doanh nghiệp những khóa đào tạo cơ bản. Trong 10 năm tới chúng ta tập trung vào đào trực tiếp tại doanh nghiệp. Chúng ta sẽ cầm tay chỉ việc vào những việc cụ thể.
Đấy là những mục tiêu sắp tới của mục tiêu NSCL sắp tới để nâng cao nguồn nhân lực.
MC. Việt Hà: Thưa PGS. TS Vũ Hoàng Nam, để cải thiện năng suất, Việt Nam cần tập trung đầu tư vào các yếu tố: Vốn, khoa học công nghệ và con người. Ông có nhận định như thế nào vai trò của nguồn nhân lực trong vấn đề góp phần cải thiện năng suất tại Việt Nam?
PGS. TS Vũ Hoàng Nam: Tôi hoàn toàn nhất trí với quan điểm của tiến sĩ Hiệp về chương trình 1322 sắp tới là nhấn mạnh vào nguồn nhân lực. Vai trò vốn tăng trưởng trong 30 năm qua với ngành kinh tế Việt Nam chúng ta thấy rất rõ. Vốn là động lực của tăng trưởng đối với nền kinh tế Việt Nam tuy nhiên chúng ta không thể dựa mãi vào vốn để phát triển. Đổi mới nền tăng trưởng là việc mà chính phủ và các cơ quan ban ngành đề cập đến trong nhiều năm nay. Khi nói đến câu chuyện đổi mới nền tăng trưởng thì tôi hoàn toàn nhất trí với TS. Thân. Câu chuyện khoa học công nghệ là động lực chính trực tiếp và rất quan trọng.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, chúng ta có rất nhiều cách để đẩy khoa học công nghệ, chúng ta có thể nhập khẩu khoa học công nghệ, phát triển khoa học công nghệ. Nhưng cho dù chúng ta nhập khẩu hay phát triển khoa học công nghệ thì điều quan trọng chúng ta cần là thể chế, chúng ta cần là đổi mới thể chế kinh tế để công nghệ mới đó được ứng dụng và phát huy hiệu quả cao nhất.
Bên cạnh đổi mới thể chế kinh tế, thì nguồn nhân lực vẫn luôn là điều chúng ta thấy rất là quan trọng, bởi vì chúng ta vừa đổi mới thể chế, vừa đổi mới công nghệ và con người sẽ là động lực để tăng năng suất. Đó là sẽ động lực mới cho việc tăng năng suất trong thời gian qua.
MC. Việt Hà: Vâng thưa PGS. TS Vũ Hoàng Nam, ông đánh giá như thế nào về nhu cầu/sự quan tâm của sinh viên đối với các nội dung đào tạo về năng suất chất lượng nói chung và cụ thể hơn là các giải pháp cải tiến, nâng cao năng suất?
PGS. TS Vũ Hoàng Nam: Như TS. Hiệp đã nói, Chương trình 712 đã tạo ra phong trào và nâng cao nhận thức về năng suất thế thì phong trào nâng cao nhận thức này không chỉ là doanh nghiệp mà nó còn lan tỏa đến các trường đại học, nó lan tỏa bằng việc các thầy cô ở các trường đại học tham gia vào chương trình tư vấn cho doanh nghiệp rồi sau đó quay trở lại giảng dạy cho sinh viên. Vì thế nhận thức của sinh viên về việc nâng cao năng suất chất lượng nó cũng đã dần được cải thiện. Nhưng tôi nghĩ năng suất chất lượng không nên chỉ dừng lại ở phong trào, mà nó còn phải trở thành một văn hóa, một văn hóa doanh nghiệp, văn hóa của người học, văn hóa của một quốc gia về năng suất chất lượng. Nghĩa là chúng ta cần xuất phát điểm từ năng suất chất lượng và khi nó trở thành văn hóa thì tôi nghĩ rằng là năng suất chất lượng sẽ tăng nhanh, bền vững và sẽ có lợi cho sự phát triển của kinh tế nói chung.
TS. Nguyễn Văn Thân, Đại biểu Quốc hội, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam trong chương trình tọa đàm do Chất lượng Việt Nam (VietQ.vn) tổ chức |
MC. Việt Hà: Chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cho nâng cao năng suất doanh nghiệp, nhất là các DNNVV hiện nay đang rất thiếu yếu. TS. Thân có đề xuất gì để khắc phục thực trạng này?
TS. Nguyễn Văn Thân - Đại biểu Quốc hội: Thực trạng của nước ta về thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao nói chung và nhân lực phục vụ cho nâng cao năng suất doanh nghiệp nói riêng là điều rõ ràng có thể nhìn thấy. Nhiều đợt chuyên gia, cán bộ đào tạo của Hiệp hội chúng tôi khi xuống tới doanh nghiệp đều phản hồi trở lại là: Rất ít người lao động có hiểu biết căn bản về năng suất, chất lượng, trong khi họ mới chính là lực lượng chủ chốt, thường xuyên để phát hiện và cải tiến những vấn đề tồn tại của doanh nghiệp mình. Mặt khác, số lượng chuyên gia có am hiểu sâu lại không nhiều, vì vậy họ không thể cáng đáng được hết 800.000 doanh nghiệp trên cả nước. Do đó, tôi có một số đề xuất như sau:
Về công tác đào tạo học sinh ra trường, Chính phủ nên tập trung nhiều hơn cho lĩnh vực dạy nghề, đảm bảo cả về số lượng và chất lượng học sinh ra trường có tay nghề cao (bao gồm cả kinh nghiệm thực tế doanh nghiệp). Chỉ khi lao động có tay nghề cao và có kiến thức thực tế thì họ mới nhìn ra những vấn đề còn bất cập của doanh nghiệp.
Về công tác đào tạo chuyên gia, Chính phủ nên có các chương trình hỗ trợ đào tạo trong và ngoài nước cho các tư vấn viên về năng suất, chất lượng để có nhiều hơn các chuyên gia trong lĩnh vực này. Ngoài ra, Chính phủ nên xây dựng một bảng lương “vượt trội” để khuyến khích lực lượng lao động chất lượng cao.
Về công tác truyền thông và hỗ trợ doanh nghiệp, Chính phủ nên thông qua các Hiệp hội (cần có kinh phí hỗ trợ) để trực tiếp tư vấn các giải pháp nâng cao năng suất, chất lượng cho doanh nghiệp; đồng thời trực tiếp xuống hiện trường để cải tiến, đào tạo cho doanh nghiệp và người lao động.
Về công tác đào tạo người lao động, các doanh nghiệp cần liên kết với các trường dạy nghề để xây dựng kế hoạch đào tạo hằng năm cho lực lượng lao động, thậm chí có đơn đặt hàng cụ thể cho doanh nghiệp mình.
MC. Việt Hà: Trong bối cảnh CMCN 4.0 với xu hướng chuyển đổi số, việc nâng cao NSCL tại các DN được Bộ KH&CN định hướng vào những mục tiêu gì thưa TS. Hà Minh Hiệp?
TS. Hà Minh Hiệp: Như TS Thân và PGS. TS Nam cũng đã nói, chúng tôi thông qua các khóa đào tạo của tổ chức Năng suất châu Á, khóa đào tạo của Việt Nam và các chương trình đào tạo, bồi dưỡng trong các trường đại học, trường nghề các cấp độ mà chúng tôi sẽ hướng tới để bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực.
Cũng theo như quan điểm của TS. Thân thì chúng tôi sẽ chuẩn hóa các tài liệu cũng như hệ thống chương trình bồi dương nâng cao để làm sao thực sự khi người ta người ta hứng thú tham gia và cái học của họ đáp ứng cho nhu cầu.
Bên cạnh đó chúng tôi cũng tạo ra sự hợp tác chặt chẽ giữa các doanh nghiệp để những kiến thức học, những nội dung đi thực tiễn từng vấn đề của doanh nghiệp. Và làm sao để doanh nghiệp thấy được nhu cầu và tiềm năng của những người học và chính những
Chúng tôi đang cố gắng làm sao xây dựng hệ sinh thái để giúp cho các tập thể như cơ quan nhà nước, trường học, doanh nghiệp tiến gần với nhau hơn, hiểu nhau hơn và cùng nhau triển khai, thực hiện hệ sinh thái này.
TS Hà Minh Hiệp |
MC. Việt Hà: Chuyển đổi số và sản xuất thông minh là xu hướng tất yếu, tạo ra những cải tiến mang tính đột phá về năng suất. Bên cạnh một số ít nhóm doanh nghiệp dẫn đầu đã tiếp cận và chuẩn bị lộ trình cho công cuộc này, hầu hết doanh nghiệp Việt Nam vẫn đang "loay hoay" trong công cuộc chuyển đổi số và sản xuất thông minh. Theo ông Ngô Việt Hải, các DN cần chuẩn bị những gì và bắt đầu từ đâu?
Ông Ngô Việt Hải, Giám đốc khu vực Việt Nam, Tập đoàn Advantech: Trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0 doanh nghiệp gặp nhiều thách thức nhưng cũng đứng trước nhiều cơ hội rõ ràng. Việc đưa chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) vào sản xuất sẽ tạo nền tảng để thay đổi doanh nghiệp, góp phần nâng cao năng suất chất lượng cho doanh nghiệp.
Hiện nay, quá trình chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ với nhiều lợi thế từ sự phát triển của sản xuất thông minh, công nghệ máy tính, trí tuệ nhân tạo. Do đó, điều này sẽ càng thúc đẩy việc ứng dụng CNTT vào sản xuất trong doanh nghiệp, tạo ra những thay đổi bước ngoặt mới.
Bản thân doanh nghiệp chúng tôi cũng đã ứng dụng chuyển đổi số được 4 năm nay và đã đạt được những kết quả tích cực. Và trong quá trình này, chúng tôi rút ra được nhiều kinh nghiệm và cũng nhìn thấy một số vấn đề khó khăn của các doanh nghiệp nói chung khi thực hiện chuyển đổi số. Thậm chí có doanh nghiệp còn rơi vào tình trạng “đứt gãy giữa đường” khi ứng dụng chuyển đổi số không hợp lý.
Điểm hạn chế, khó khăn thứ nhất là ở việc nhiều doanh nghiệp còn khá vội vàng trong chuyển đổi số, chưa có cái nhìn toàn diện về ứng dụng chuyển đổi số vào doanh nghiệp. Do đó, người lãnh đạo doanh nghiệp cần xác định rõ tư tưởng về chuyển đổi số, cần có tuy thay đổi tích cực đối với việc ứng dụng CNTT vào quá trình sản xuất của mình.
Thứ hai là thách thức về nguồn nhân lực. Nhiều doanh nghiệp có khao khát chuyển đổi số nhưng lại thiếu nguồn nhân lực chất lượng để có thể vận hành, cải tiến quá trình sản xuất, hướng tới chuyển đổi số.
Thứ ba là nhiều doanh nghiệp hiện còn hiểu sai về ứng dụng CNTT để thúc đẩy chuyển đổi số trong doanh nghiệp. Chuyển đổi số không phải đơn giản chỉ lả việc mua công nghệ sau đó lắp ghép là xong. Chuyển đổi số cần xây dựng chiến lược rõ rang, đúng đắn và có lộ trình cụ thể, nếu không dễ rơi vào tình trạng “đứt gãy giữa đường” như tôi đã nói.
Về lời khuyên, tôi cho rằng chuyển đổi số cần được doanh nghiệp nhìn nhận một cách toàn diện, không chỉ ở khía cạnh ứng dụng CNTT mà còn ở tầm nhìn lãnh đạo, chủ trương của doanh nghiệp. Bên cạnh đó cần xây dựng đội ngũ nhân sự tích cực, cần kiên trì để thay đổi dần dần văn hóa doanh nghiệp.
Doanh nghiệp cần xác định rõ thực trạng của mình xem yếu ở khẩu nào để từ đó chọn thứ tự ưu tiên thay đổi, cần có phân đoạn rõ rang để có kế hoạch đầu tư tài chính đúng mức, đúng chỗ để cải thiện các điểm yếu, đảm bảo từng mục tiêu có hiệu quả. Doanh nghiệp cũng cần lưu ý chuẩn bị nhân sự chất lượng, tăng cường đào tạo, tạo nên đội ngũ tham gia vận hành quá trình chuyển đổi công nghệ, ứng dụng chuyển đổi số được hiệu quả.
MC. Việt Hà: Với xu thế CMCN 4.0 và chuyển đổi số, theo ông Thân doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam phải làm gì để “đón sóng” 4.0 và nâng cao năng lực cạnh tranh?
TS. Nguyễn Văn Thân - Đại biểu Quốc hội: Chúng ta vẫn luôn nhắc tới sự vào cuộc một chiều từ phía Chính phủ và các cơ quan, Bộ ngành, địa phương, dẫn đến câu chuyên “ỷ nại” của doanh nghiệp. Trong thực tế, doanh nghiệp là người hiểu rõ nhất về nhu cầu và mong muốn của chính mình, trong khi Nhà nước chỉ tháo gỡ những khó khăn, bất cập; tạo ra cơ chế, chính sách thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động.
Do vậy, bản thân doanh nghiệp phải chủ động đánh giá được nhu cầu phát triển của bản thân, tiềm năng, tiềm lực để triển khai mục tiêu đó; từ đó mới tìm đến các giải pháp chuyển đổi số, theo các hình thức, bao gồm: Chủ động tìm kiếm và ứng dụng các công cụ chuyển đổi số; tiếp đến là thuê chuyên gia và các dịch vụ tư vấn bên ngoài; rồi cuối cùng mới tìm kiếm sự hỗ trợ của Nhà nước. Nói tóm lại, sự chủ động của doanh nghiệp là yếu tố quyết định trong việc có chuyển đổi số thành công hay không.
MC. Việt Hà: Nhiều DN cho rằng chuyển đổi số và sản xuất thông minh là cuộc chơi cần có sự đầu tư tốn kém, vì vậy coi đây là một trở ngại khó có thể vượt qua, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ông Hải có lời khuyên gì dành cho họ?
Ông Ngô Việt Hải, Giám đốc khu vực Việt Nam, Tập đoàn Advantech: Đã gọi là cách mạng thì không có cuộc cách mạng nào đơn giản và dễ dàng cả và nó tất yếu sẽ tạo nên một cuộc thay đổi lớn. Chuyển đổi số cũng vậy.
Hiện nay khó khăn đối với doanh nghiệp khi thực hiện chuyển đổi số và ứng dụng sản xuất thông minh có rất nhiều. Ví dụ như việc xác định mục tiêu, thực trạng khi chuẩn bị chuyển đổi. Rồi cần phải tính đến mục tiêu 5 năm tới chúng ta ra sao, 10 năm tới chúng ta thế nào?
Hai là chúng ta phải xác định các vấn đề nội tại, tồn tại, cần xác định xem chúng ta đau ở đâu mà chữa. Thêm nữa là cần tính toán vấn đề tài chính khi chúng ta bắt đầu chuyển đổi, đây là yếu tố rất quan trọng.
Về lời khuyên, tôi nghĩ doanh nghiệp cần đặc biệt chú ý tới dữ liệu và đánh giá dữ liệu, từ đó xác định thực trạng doanh nghiệp và đưa ra kế hoạch hợp lý. Ví dụ như vấn đề về tiết kiệm năng lượng của một doanh nghiệp chẳng hạn, chúng ta cần phải xem chúng ta đang lãng phí hoặc sử dụng năng lượng chưa hiệu quả ở khâu nào, khâu nào cần cải thiện. Từ đó, tìm giải pháp thay đổi cách vận hành, đầu tư cho công nghệ mới để đạt tới hiệu quả là tiết kiệm năng lượng.
PGS. TS Vũ Hoàng Nam - Trường Đại học Ngoại Thương |
MC. Việt Hà: Hiện nay có những DN chưa sẵn sàng chuyển đổi số thì chúng ta sẽ phải làm gì để hỗ trợ nhóm DN này tiếp cận nhanh hơn đến chuyển đổi số, thưa ông Hiệp?
TS. Hà Minh Hiệp: Qua quá trình trao đổi của những chuyên gia ở đây thì có thể thấy, có những mô hình điểm của doanh nghiệp về chuyển đổi số có lẽ chúng ta cũng nên đầu tư để có một số hạ tầng chung cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nghĩa là, một doanh nghiệp vừa và nhỏ người ta không thể có kinh phí để xây dựng hệ thống của họ thì chúng ta có thể nghiên cứu chương trình xem nên có hạ tầng chung để các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tham gia vào và họ có thể thu nhập dữ liệu và hình thành văn hóa dữ liệu, họ nâng cao nhận thức từ đây.
Tôi nghĩ đây cũng là một trong những giải pháp mà hỗ trợ thêm cho nhóm, khối doanh nghiệp vừa và nhỏ khi mà họ chưa sẵn sàng, họ chưa có những chiến lược cụ thể. Chúng tôi cũng sẽ báo cáo Bộ KH&CN xem xét các dự án hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
MC. Việt Hà: Thưa ông Hải, ông có thể chia sẻ một vài hình mẫu doanh nghiệp đã và đang thực hiện chuyển đổi số và sản xuất thông minh, đặc biệt là doanh nghiệp Việt Nam?
Ông Ngô Việt Hải, Giám đốc khu vực Việt Nam, Tập đoàn Advantech: Cách đây 4 năm tại một hội thảo ở Đài Loan thì tôi có để ý đến trường hợp của doanh nghiệp tên Bosch. Doanh nghiệp này có khoảng 250 nhà máy. Họ cũng đã thực hiện chiến lược chuyển đổi số và ứng dụng sản xuất thông minh. Ở Việt Nam cũng có hệ thống nhà máy của Bosch và họ cũng đã triển khai những hoạt động tương tự
Kết quả họ đã có thể đánh giá được tình trạng doanh nghiệp, nâng cao năng suất chất lượng, tỷ lệ sản phẩm lỗi giảm, tiết kiệm được năng lượng, quản trị vòng đời sản phẩm tốt hơn.
Hay là một trường hợp Công ty Mypeer cũng áp dụng chuyển đổi số trong nhà máy của họ một cách tập trung, họ tiến hành nâng cao, đổi mới sản xuất, đánh giá hiệu năng giúp cho kế hoạch về sản xuất sản phẩm được thực hiện nhanh, hiệu quả. Các vấn đề của khách hàng được giải đáp nhanh, quy trình được rút ngắn và tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Ở Việt Nam, chưa có nhiều doanh nghiệp ứng dụng chuyển đổi số, chỉ tập trung ở doanh nghiệp sản xuất phụ kiện ô tô. Ví dụ như công ty Prime làm về sàn nhà, gạch, họ chủ động tiếp cận chuyển đổi số, chủ động xây dựng đội ngũ thực hiện quá trình này. Trong từng giai đoạn họ thu thập dữ liệu và thực hiện từng mục tiêu một cách hiệu quả với những chiến lược riêng cho từng giai đoạn.
Nhưng có một trường hợp doanh nghiệp Nhật Bản hoạt động tại Việt Nam có cách làm rất hay. Họ thực hiện chuyển đổi số có trọng tâm, không làm tất cả cùng một lúc mà lựa chọn cải tiến một số khâu về máy móc, hệ thống dây chuyền sản xuất trước. Họ triển khai nhiều hệ thống hiện đại, công cụ nhập liệu để thu thập dữ liệu rồi đưa ra kế hoạch cải tiến sát với thực tế yêu cầu.
MC. Việt Hà: Thưa ông Nam, trong thời gian qua Trường Đại học Ngoại Thương đã có những hoạt động gì để đưa nội dung liên quan đến NSCL, chuyển đổi số đến với sinh viên? Tại sao Trường lại muốn đưa nội dung này tới sinh viên và định hướng trong thời gian tới?
PGS. TS Vũ Hoàng Nam: Trong thời gian qua, liên quan đến hai mảng hoạt động chính của trường là đào tạo và nghiên cứu, cũng như theo TS. Thân đã nói luôn luôn nỗ lực gắn đào tạo lý thuyết vào thực tiễn, và đồng thời hiện nay nhà trường luôn cân nhắc đưa vào một số môn học mới, ngoài những môn học truyền thống về kinh tế, kinh doanh thì nhà trường cũng có những môn học mới như Data Science, Big Data, AI, … nhà trường cũng đang bắt đầu triển khai thử nghiệm một số môn vào thành những môn học liên ngành như kinh tế và kinh doanh. Về lĩnh vực nghiên cứu nhà trường đang xây dựng chuyển giao một số mô hình quản trị doanh nghiệp. Thời gian qua nhà trường cũng đã tư vấn cho rất nhiều doanh nghiệp, ví dụ như Công ty cổ phần Bóng đèn Phích nước Rạng Đông và kết quả cũng rất là tốt. Hiện nay, nhà trường cũng đang triển khai những dự án tư vấn cho doanh nghiệp về vấn đề này, kết quả cũng rất khả quan.
Tại sao nhà trường muốn làm việc đó? Nhà trường không chỉ muốn cung cấp nguồn nhân lực đơn thuần cho nền kinh tế và doanh nghiệp, mà nhà trường cũng muốn cung cấp các giải pháp cho nền kinh tế và doanh nghiệp. Nếu như ngay từ đầu, sinh viên được, tiếp cận, đào tạo sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh cho các sinh viên. Và như tôi đã nói ban đầu, nếu như chúng ta thật sự muốn năng suất chất lượng trở thành văn hóa thì việc tư vấn không cho các doanh nghiệp là chưa đủ, mà cần phải được bắt đầu thực hiện từ khi còn đang ngồi trên ghế nhà trường. Tôi cũng rất hi vọng trong thời gian tới, Bộ KH&CN, cũng như chương trình 1322 sẽ phối hợp cùng trường đại học Ngoại Thương nói riêng và các trường đại học, cao đẳng ở Việt Nam nói chung dần đưa đề tài đào tạo nghiên cứu về dự án Năng suất chất lượng vào trong trường, và trở thành một văn hóa, để mà có thể cố gắng chúng ta có một văn hóa năng suất chất lượng giống như người Đức và người Nhật.
Ông Ngô Việt Hải, Giám đốc khu vực Việt Nam, Tập đoàn Advantech |
MC. Việt Hà:Với tư cách đại diện cho các DN nhỏ và vừa - khối DN chiếm tỷ trọng lớn trong phát triển kinh tế, Hiệp hội có đề xuất gì với sự hỗ trợ của Nhà nước và Chính phủ trong thời gian tới?
TS. Nguyễn Văn Thân - Đại biểu Quốc hội: Nghiên cứu, thay đổi cách thức hỗ trợ doanh nghiệp, người lao động và các đối tượng khác:
Thời gian qua, gói hỗ trợ an sinh xã hội 62.000 tỷ mới chỉ giải ngân được khoảng 12% và theo chúng tôi được biết thì đa số những cá nhân nhận được hỗ trợ đều là các đối tượng chính sách đã được nhà nước công nhận, nên thủ tục giải ngân là rất thuận lợi. Tuy nhiên, các trường hợp khác phải tốn nhiều thời gian để thẩm tra hồ sơ. Vì vậy, Hiệp hội kiến nghị Chính phủ xem xét chuyển đổi cách thức hỗ trợ người lao động và các đối tượng khó khăn từ tiền mặt qua hỗ trợ kinh phí tiền điện hằng tháng (có thể hỗ trợ thêm những chi phí thường xuyên khác). Chính sách trên nên được cân nhắc áp dụng với tất cả người dân để tránh lặp lại những bất cập của gói 62.000 tỷ. Các khoản hỗ trợ thay vì được chuyển trực tiếp tới tay người dân, sẽ được thanh toán cho các đơn vị cung cấp dịch vụ như Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN).
Thúc đẩy phát triển kinh tế nội địa và hội nhập kinh tế quốc tế: Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị quyết và chính sách thúc đẩy kinh tế nội địa và thực tế chúng ta đang triển khai tương đối hiệu quả. Chúng tôi kiến nghị Chính phủ cần đầu tư mạnh mẽ hơn cho “kinh tế ban đêm”; đồng thời giao nhiều hơn nữa các dự án đầu tư công cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhất là trong bối cảnh Covid-19.
Ngoài ra, Việt Nam hiện đã có 16 Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, cả song phương lẫn đa phương, và gần đây nhất là hai Hiệp định thương mại tự do toàn diện và rộng mở CPTPP và EVFTA. Cả hai hiệp định này đều có tiềm năng rất lớn đối với nền kinh tế Việt Nam, vì thế để hội nhập kinh tế quốc tế thành công, chúng tôi kiến nghị Chính phủ giao cho một số hiệp hội có đủ lực, đủ sức (có kinh phí hỗ trợ) để triển khai tuyên truyền, giám sát và phản biện đối với việc thực thi các hiệp định của các Bộ, ngành và địa phương để báo cáo với Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ.
Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công: Chúng tôi kiến nghị Chính phủ chia nhỏ các dự án đầu tư công và cân nhắc giảm yêu cầu đầu vào cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa để tạo điều kiện việc làm cũng như thu nhập cho cả doanh nghiệp lẫn người lao động.
Khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo: Những gì chúng ta đang làm với Khoa học - Công nghệ vẫn là chạy theo xu thế, thiếu sự đổi mới sáng tạo và tư duy dẫn đầu. Do đó, cần thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo quốc gia để phát triển mạnh lực lượng doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo có tiềm năng tăng trưởng nhanh; thúc đẩy gắn kết, hợp tác giữa các trường đại học, viện nghiên cứu với khu vực công nghiệp, nông nghiệp và doanh nghiệp để đẩy mạnh thương mại hóa kết quả nghiên cứu trong thực tiễn sản xuất, kinh doanh.
MC Việt Hà: Thưa quý vị và các bạn!
Làn sóng công nghiệp 4.0 với xu hướng số hóa và chuyển đổi số mang đến cơ hội nâng cao năng suất trên phạm vi toàn thế giới, trong đó có Việt Nam.
Để nắm lấy cơ hội này, không chỉ các doanh nghiệp lớn, mà các doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng cần phải tận dụng chuyển đổi số như một cơ hội để tồn tại và nâng cao năng lực cạnh tranh. Các doanh nghiệp triển khai tốt chuyên đổi số sẽ là doanh nghiệp có chiến lược đổi mới sáng tạo, áp dụng các mô hình, hệ thống quản lý và công cụ tiên tiến, có chất lượng sản phẩm hàng hóa vượt trội góp phần nâng cao giá trị, sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế.
Một lần nữa, xin cảm ơn các vị khách mời đã tham gia chương trình.
Xin cảm ơn sự chú ý theo dõi của quý vị và các bạn.
Xin chào và hẹn gặp lại ở các chương trình tiếp theo!
BBT