Văn bản hợp nhất quy định chi tiết thi hành Luật Nhà ở vừa được Bộ Xây dựng công bố, hợp nhất Nghị định 100/2024/NĐ-CP và các sửa đổi tại Nghị định 261/2025/NĐ-CP, 192/2025/NĐ-CP. Văn bản này hoàn thiện khung pháp lý quan trọng cho phát triển nhà ở xã hội và nhà ở cho lực lượng vũ trang, với hiệu lực từ ngày 10/10/2025 đối với các nội dung sửa đổi.
Nghị định nêu rõ các quy định về quỹ đất, ưu đãi cho chủ đầu tư, tiêu chuẩn diện tích nhà ở, điều kiện thụ hưởng chính sách, cơ chế xác định giá bán – thuê mua và thủ tục thực hiện dự án.
|
| Ảnh minh họa |
Cơ chế vốn và ưu đãi tài chính
Đối với người mua và thuê mua nhà ở xã hội, mức lãi suất vay tại Ngân hàng Chính sách xã hội được ấn định 5,4%/năm, thời hạn vay tối đa 25 năm. Chủ đầu tư dự án nhà ở xã hội được hưởng mức lợi nhuận tối đa 10% chi phí đầu tư xây dựng phần diện tích nhà ở xã hội, đồng thời có thể sử dụng tối đa 20% diện tích đất hoặc diện tích sàn để kinh doanh thương mại, dịch vụ hoặc nhà ở thương mại.
Tại các đô thị loại đặc biệt, loại I, II và III, chủ đầu tư dự án nhà ở thương mại phải dành 20% diện tích đất ở đã hoàn thiện hạ tầng để xây dựng nhà ở xã hội. Trường hợp được UBND tỉnh chấp thuận, chủ đầu tư có thể bố trí quỹ đất ở vị trí khác trong đô thị hoặc nộp tiền tương đương giá trị quỹ đất này vào ngân sách địa phương để thực hiện dự án nhà ở xã hội.
Nghị định quy định cụ thể mức thu nhập đối với người thu nhập thấp, công nhân, cán bộ – công chức – viên chức:
Người độc thân: thu nhập bình quân hằng tháng không quá 20 triệu đồng.
Người độc thân nuôi con dưới tuổi thành niên: không quá 30 triệu đồng.
Hộ gia đình đã kết hôn: thu nhập của hai vợ chồng không quá 40 triệu đồng/tháng.
Đối với lực lượng vũ trang, điều kiện thu nhập được xác định dựa trên tổng thu nhập của sĩ quan có cấp bậc Đại tá.
Tăng cường kiểm soát và quản lý sau đầu tư
Nghị định mới đã đặt ra yêu cầu cụ thể nhằm bảo đảm sự ổn định của nguồn cung nhà ở xã hội. Theo quy định, tại các đô thị loại đặc biệt, loại I, loại II và loại III, nhà đầu tư dự án nhà ở thương mại phải trích 20% tổng diện tích đất ở (trừ đất ở hiện hữu và đất tái định cư) đã hoàn thành đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật để dành cho mục đích xây dựng nhà ở xã hội.
Tuy nhiên, Nghị định cũng tạo điều kiện linh hoạt cho chủ đầu tư. Nếu được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chấp thuận, chủ đầu tư có thể lựa chọn thay thế nghĩa vụ này bằng việc bố trí một quỹ đất nhà ở xã hội khác đã đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật ở một vị trí khác trong cùng phạm vi đô thị. Hoặc chủ đầu tư được phép đóng một khoản tiền tương đương với giá trị quỹ đất đã đầu tư hạ tầng kỹ thuật để xây dựng nhà ở xã hội. Khoản tiền này phải được nộp vào ngân sách địa phương và quản lý, sử dụng theo đúng quy định của pháp luật về ngân sách cũng như Quỹ nhà ở quốc gia.
Về điều kiện đối tượng được thụ hưởng, Nghị định đã cập nhật chi tiết các quy định về thu nhập áp dụng cho nhóm thu nhập thấp, công nhân, cán bộ, công chức, viên chức, dựa trên các khoản 5, 6, 8 Điều 76 Luật Nhà ở. Cụ thể, người độc thân có thu nhập bình quân hằng tháng thực nhận không quá 20 triệu đồng. Trường hợp người độc thân đang nuôi con dưới tuổi thành niên, thu nhập bình quân hằng tháng thực nhận được nâng lên không quá 30 triệu đồng. Đối với các trường hợp đã kết hôn, tổng thu nhập bình quân hằng tháng thực nhận của cả vợ và chồng phải không vượt quá 40 triệu đồng. Đối với nhà ở dành cho lực lượng vũ trang nhân dân, điều kiện về thu nhập cũng được quy định riêng biệt, dựa trên cơ sở tổng thu nhập của sĩ quan có cấp bậc hàm Đại tá.
Nguồn: Báo Nhân Dân














