Thời gian vừa qua, một số cơ quan báo chí có đề cập, phản ánh thông tin từ Hiệp hội doanh nghiệp tỉnh Thái Nguyên về quy định quản lý thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết. Theo đó, cho rằng thông báo này đang khiến khoảng 7.800 doanh nghiệp trong tỉnh “mắc cạn”.
Liên quan đến nội dung này, Tổng cục Thuế cho biết, căn cứ quy định về xác định mối quan hệ liên kết theo vốn vay đã được quy định tại Thông tư số 117/2005/TT-BTC; Thông tư số 66/2010/TT-BTC; Nghị định số 20/2017/NĐ-CP và Nghị định số 132/2020/NĐ-CP.
Tổng cục Thuế khẳng định, đây không phải là quy định mới về xác định mối quan hệ liên kết theo vốn vay. Trong đó, Nghị định số 20/2017/NĐ-CP và Nghị định số 132/2020/NĐ-CP còn nâng mức tỷ lệ cao hơn so với quy định tại Thông tư số 66 (từ 20% lên mức 25%).
Cụ thể: tại điểm e khoản 4 Điều 3 Thông tư số 66/2010/TT-BTC quy định: “e) Một doanh nghiệp bảo lãnh hoặc cho một doanh nghiệp khác vay vốn dưới bất kỳ hình thức nào với điều kiện khoản vốn vay ít nhất bằng 20% vốn đầu tư của chủ sở hữu của doanh nghiệp đi vay và chiếm trên 50% tổng giá trị các khoản nợ trung và dài hạn của doanh nghiệp đi vay;”
Tại điểm d khoản 2 Điều 5 Nghị định số 20/2017/NĐ-CP và điểm d khoản 2 Điều 5 Nghị định số 132/2020/NĐ-CP quy định: “d) Một doanh nghiệp bảo lãnh hoặc cho một doanh nghiệp khác vay vốn dưới bất kỳ hình thức nào (bao gồm cả các khoản vay từ bên thứ ba được đảm bảo từ nguồn tài chính của bên liên kết và các giao dịch tài chính có bản chất tương tự) với điều kiện khoản vốn vay ít nhất bằng 25% vốn góp của chủ sở hữu của doanh nghiệp đi vay và chiếm trên 50% tổng giá trị các khoản nợ trung và dài hạn của doanh nghiệp đi vay;”
“Do đó, đây không phải là quy định mới gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi xác định mối quan hệ liên kết theo vốn vay như Hiệp hội doanh nghiệp tỉnh Thái Nguyên đã đề cập”, Tổng cục Thuế khẳng định.
Bên cạnh đó, khi xác định 2 doanh nghiệp có mối quan hệ liên kết thì giao dịch phát sinh giữa 2 doanh nghiệp này là giao dịch liên kết và phải thực hiện kê khai xác định giá giao dịch liên kết theo quy định.
Đồng thời, nếu doanh nghiệp có giao dịch liên kết chi phí lãi vay được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế sẽ áp dụng theo quy định tại Khoản 3 Điều 8 Nghị định 20/2017/NĐ-CP (được sửa đổi bổ sung tại Nghị định số 68/2020/NĐ-CP) và khoản 3 Điều 16 Nghị định số 132/2020/NĐ-CP.
Tuy nhiên, theo Tổng cục Thuế do nhiều doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu hoạt động bằng việc vay vốn ngân hàng với mức vốn vay lớn gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu nên nhiều doanh nghiệp được xác định có mối quan hệ liên kết với doanh nghiệp là các ngân hàng khi vay vượt 25% vốn góp của chủ sở hữu và chiếm trên 50% tổng các khoản nợ trung và dài hạn.
Qua thực tế triển khai nhiệm vụ, Tổng cục Thuế nhận được một số văn bản hỏi của các Cục Thuế về việc xác định mối quan hệ liên kết theo vốn vay trong đó có xác định mối quan hệ liên kết vay giữa doanh nghiệp với ngân hàng với mức vốn vay trên 25% vốn chủ sở hữu.
Trong đó, giao dịch xác định chi phí lãi vay với ngân hàng theo nguyên tắc giao dịch độc lập không phải là vướng mắc của doanh nghiệp mà vấn đề là ở việc khi xác định có quan hệ liên kết theo vốn vay với ngân hàng, doanh nghiệp và ngân hàng phát sinh giao dịch sẽ được xác định là giao dịch liên kết, chi phí lãi vay được trừ của doanh nghiệp sẽ áp dụng khống chế theo quy định của Nghị định.
Tổng cục Thuế thấy rằng, việc xác định mối quan hệ liên kết theo vốn vay với đặc thù của doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải nghiên cứu (có thể nâng mức cao hơn - không giữ ở 25% như hiện tại) để phù hợp hơn với đặc thù của doanh nghiệp Việt Nam hoạt động chủ yếu bằng vốn vay.
Mặc dù vậy, theo Tổng cục Thuế việc nghiên cứu này cũng cần phải cân nhắc thêm do Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị đã đưa ra nhiệm vụ, giải pháp (trích nội dung) “… Nghiên cứu, xây dựng các quy định khắc phục tình trạng "vốn mỏng", chuyển giá, đầu tư "chui", đầu tư "núp bóng"…”
Về vấn đề trên, Tổng cục Thuế đã có buổi trao đổi giữa với các chuyên gia Dự án RARS (Dự án Hỗ trợ hiện đại hoá hệ thống thuế) về vấn đề vốn mỏng có nên áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp Việt Nam hay không.
Theo đó, các chuyên gia Dự án RARS khuyến nghị rằng, tại Việt Nam các doanh nghiệp thường vay nhiều, “mức thị trường” không phải là vay gấp 3 - 4 lần vốn chủ sở hữu mà có thể có thể tới 7 - 8 lần. Do đó Việt Nam cần cân nhắc khi đưa ra quy định về vốn mỏng áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp.